Phân tích Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam để thấy rõ hoàn cảnh phố huyện nghèo, con người sống đơn sơ yêu thương nhau, nhưng họ luôn có ước mơ cho cuộc đời mình. Trong hoàn cảnh nghèo đói, loạn lạc ngày xưa, có rất nhiều tác phẩm văn học đặc sắc ra đời. Trong đó, phải kể đến đầu tiên là tác phẩm Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam. Tác phẩm nêu rõ bức tranh phố huyện nghèo, cùng những con người với mảnh đời xơ xác. Hãy cùng phân tích Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam ngắn nhất để thấy rõ sự nghèo đói, cuộc sống nhàm chán mỗi ngày và lý do tại sao Liên và An luôn đợi tàu mỗi đêm khuya muộn.

Bạn đang xem: Phân tích 2 đứa trẻ

Phân tích đề bài

– Yêu cầu đề bài: phân tích các chi tiết, hình ảnh, các nhân vật, nội dung, nghệ thuật của truyện ngắn để rút ra thông điệp và tư tưởng mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm

– Đối tượng làm bài: truyện ngắn Hai đứa trẻ

– Phương pháp làm bài: phân tích, cảm nhận

Khái quát nội dung truyện ngắn Hai đứa trẻ

a) Bức tranh phố huyện

Nhịp sống buồn bã, tẻ nhạt của phố huyện từ chiều tàn đi vào đêm khuyaTất cả được thể hiện ra qua cái nhìn xót xa, thương cảm của tác giả

b) Hình ảnh đoàn tàu và tâm trạng của hai đứa trẻ

Đánh thức kỷ niệm về một Hà Nội đẹp đẽ thiết tha

c) Nhân vật Liên

Hiện thực buồn tẻ, tù đọng của tác phẩm càng nặng nề vì Liên đã ý thức được đầy đủ và sâu sắc về cuộc sống đó.

d) “Hai đứa trẻ”, bài ca về quê hương, đất nước

Các luận điểm chính cần triển khai

* Luận điểm 1: Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn

* Luận điểm 2: Bức tranh phố huyện lúc đêm khuya

* Luận điểm 3: Hình ảnh chuyến tàu và tâm trạng chờ mong chuyến tàu đêm của Liên và An

Lập dàn ý Phân tích Hai đứa trẻ của Thạch Lam ngắn nhất

I. Mở bài

– Đôi nét về Thạch Lam: Một trong những cay bút tiêu biểu của Tự lực văn đoàn, ông có thế mạnh về viết truyện ngắn. Văn chương Thạch Lam rất thích hợp để thanh lọc tâm hồn

– Hai đứa trẻ là một truyện ngắn trữ tình đượm buồn

II. Thân bài

1. Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn

a) Bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện lúc chiều tàn:

– Toàn bộ cảnh vật được cảm nhận qua cái nhìn của Liên

– Âm thanh: + Tiếng trống thu không gọi chiều về, tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve.

– Hình ảnh, màu sắc: + “Phương tây đỏ rực như lửa cháy”, “Những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”.

– Đường nét: dãy tre làng cắt hình rõ rệt trên nền trời.

– Nhịp điệu chậm, giàu hình ảnh và nhạc điệu

⇒ Khung cảnh thiên nhiên đượm buồn, đồng thời thấy được sự cảm nhận tinh tế

b) Cảnh chợ tàn và những kiếp người nơi phố huyện

– Cảnh chợ tàn:

+ Chợ đã vãn từ lâu, người về hết và tiếng ồn ào cũng mất.

+ Chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía.

– Con người:

+ Mấy đứa trẻ con nhà nghèo tìm tòi, nhặt nhanh những thứ còn sót lại ở chợ.

+ Mẹ con chị Tí: với cái hàng nước đơn sơ, vắng khách.

+ Bà cụ Thi: hơi điên đến mua rượu lúc đêm tối rồi đi lần vào bóng tối.

+ Bác Siêu với gánh hàng phở – một thứ quà xa xỉ.

+ Gia đình bác xẩm mù sống bằng lời ca tiếng đàn và lòng hảo tâm của khách qua đường.

⇒ Cảnh chợ tàn và những kiếp người tàn tạ: sự tàn lụi, sự nghèo đói, tiêu điều của phố huyện nghèo.

c) Tâm trạng của Liên

– Cảm nhận rất rõ: “mùi riêng của đất, của quê hương này”.

– Nỗi buồn thấm thía trước cảnh ngày tàn và những kiếp người tàn tạ:

+ Thương những đứa trẻ nhà nghèo nhưng không có tiền mà cho chúng.

+ Xót thương mẹ con chị Tí: ngày mò cua bắt tép, tối dọn cái hàng nước chè tươi chả kiếm được bao nhiêu, xót thương bà cụ Thi điên

⇒ Tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, có lòng trắc ẩn, yêu thương con người. Đây cũng là nhân vật mà Thạch Lam gửi gắm tâm tư của mình

2. Bức tranh phố huyện lúc đêm khuya

a) Sự đối lập giữa “bóng tối” và “ánh sáng”

– Phố huyện về đêm ngập chìm trong bóng tối:

+ “Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”.

+ “Tối hết con đường thẳm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng càng sẫm đen hơn nữa”.

⇒ Bóng tối xâm nhập, bám sát mọi sinh hoạt của những con người nơi phố huyện.

– Ánh sáng của sự sống hiếm hoi, bé nhỏ: khe sánh, quầng sáng, chấm lửa nhỏ, hột sáng…⇒ ánh sáng yếu ớt, le lói như những kiếp người nghèo khổ nơi phố huyện.

– Ánh sáng và bóng tối tương phản nhau

⇒ Bóng tối bao trùm trong khi ánh sáng chỉ mong manh, nhỏ bé ⇒ kiếp người nhỏ bé sống leo lét, tàn lụi trong đêm tối mênh mông của xã hội cũ.

b) Đời sống của những kiếp người nghèo khổ trong bóng tối:

– Những công việc hằng ngày lặp đi lặp lại:

+ Chị Tí dọn hàng nước

+ Bác Siêu hàng phở thổi lửa.

+ Gia đình Xẩm “ngồi trên manh chiếu rách, cái thau sắt để trước mặt”, “Góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong im lặng”

+ Liên, An trông coi cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu.

⇒ Cuộc sống nhàm chán, quẩn quanh, đơn điệu không lối thoát.

– Những suy nghĩ cũng lặp đi lặp lại hằng ngày: Mong những người phu gạo, phu xe, mấy chú lính lệ vào hàng uống bát che tươi và hút điếu thuốc lào.

– Vẫn mơ ước: “chừng ấy người trong bóng tối đang mong đợi một cái gì tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ hàng ngày của họ” ⇒ mơ hồ, tội nghiệp

⇒ Giọng văn: chậm buồn, tha thiết thể hiện niềm cảm thương của Thạch Lam với những người nghèo khổ.

3. Hình ảnh chuyến tàu và tâm trạng chờ mong chuyến tàu đêm của Liên và An

– Liên và An thức bởi:

+ Để bán hàng

+ Để được nhìn chuyến tàu đêm đi qua – hoạt động cuối cùng của đêm khuya.

– Hình ảnh đoàn tàu xuất hiện với dấu hiệu đầu tiên:

+ Liên cũng trông thấy “ngọn lửa xanh biếc”

+ Hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi.

– Khi tàu đến:

+ Các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường.

+ Những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng.

– Khi tàu đi vào đêm tối:

+ Để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt.

+ Chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre.

⇒ Đoàn tàu xuất hiện với âm thanh sôi động và ánh sáng rực rỡ, mang đến phố huyện nghèo một thế giới khác, đó là thế giới mà Liên luôn mong ước

III. Kết bài

– Khái quát những nét đặc sắc về nghệ thuật làm nên thành công của truyện ngắn

– Hai đứa trẻ là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương của Thạc Lam: kết hợp hai yếu tố hiện thực và lãng mạn, văn phong trong sáng, giản dị mà thâm trầm.

Phân tích Hai đứa trẻ của Thạch Lam ngắn nhất, đặc sắc nhất – Bài mẫu 1

Thạch Lam là nhà văn chuyên viết về chủ đề quê hương, với nhiều tác phẩm nổi tiếng. Tác giả xót thương cho những con người có số phận bất hạnh trong xã hội. Ông tỏ thái độ đồng cảm và luôn gợi cho họ niềm hy vọng sống mỗi ngày. Tác phẩm 2 Đứa Trẻ kể về câu chuyện của Liên và An, hai chị em sống xa bố mẹ. Liên là chị, An là em, sống cùng nhau trong một căn nhà nhỏ. Ban đêm, phố huyện bị bao trùm bởi một không gian tối om.

*

Hoàn cảnh phố huyện thật nghèo nàn, buồn tẻ

Luận điểm 1: Khung cảnh, không gian phố huyện lúc chiều tàn, chợ tan

Phân tích 2 Đứa Trẻ chúng ta thấy được cuộc sống nghèo nàn, buồn tẻ của những con người nơi phố huyện. Họ sống cuộc sống không điện, không ánh sáng về đêm, tương lai mịt mù. Mở đầu bài văn, Thạch Lam gợi nên những câu thơ nhẹ nhàng “Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Mặt trời đỏ rực, báo hiệu đã đến hoàng hôn, kết thúc một ngày dài. Người dân nơi đây bắt đầu bước vào cuộc sống về đêm im ắng, lặng lẽ.

Tác giả nhấn mạnh “Chiều, chiều rồi”, tại sao họ lại sợ chiều hoàng hôn đến như vậy? Phải chăng họ sợ cái buồn tẻ, cuộc sống nhàm chán, sự im lặng về đêm. Để rồi khi bắt đầu ngày mới, họ lại lam lũ, mà vẫn nghèo đói. Tất cả cảnh vật, không gian đều được miêu tả qua cái nhìn của chị Liên. Buổi chiều bắt đầu với âm thanh tiếng ếch nhái, gió vi vu nhẹ. Câu văn của tác giả luôn truyền đạt đủ ý, ngắn gọn. Người đọc vừa thấy được bức tranh làng quê nghèo, vừa thấu hiểu được cảm xúc con người.

Khung cảnh thiên nhiên buồn bã, lòng người cũng hẩm hiu. Hình ảnh không gian quen thuộc với làng quê Việt Nam, tiếng ếch nhái, trống thu không, chợ tàn. Chiều đến, chợ tàn, những kiếp người dân nơi đây cũng tàn tạ. Cuộc sống của họ bao gồm Liên và An trông coi cửa hàng tạp hóa nhỏ. Chị Tí “ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này dưới gốc cây bàng, bên cạnh cái mốc gạch. Để bán cho ai?”. Bác Xẩm “góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng”. Cuộc đời của họ thật đơn sơ, giản dị.

*

Hình ảnh đoàn tàu đêm mang ý nghĩa rất lớn

Phân tích 2 Đứa Trẻ để thấy cuộc sống nghèo nàn, con người tình cảm nơi phố huyện. Ngoài ra còn xuất hiện hình ảnh bà cụ Thi “một bà già hơi điên, vẫn mua rượu ở hàng Liên”. Mua hàng xong, bà cụ Thi cũng cất tiếng cười khanh khách và đi vào trong đêm tối. Còn 2 chị em Liên, phải thức đến tận khuya theo lời mẹ dặn, để bán hàng. Dù chỉ là hai đứa trẻ, nhưng nhận thức về cuộc sống của nhân vật rất sâu sắc. Liên cảm nhận rõ “mùi riêng của đất, của quê hương này”. Cô cảm giác buồn man mác trước khoảnh khắc ngày tàn. Liên cũng là người sống tình cảm, biết quan tâm, yêu thương mọi người và em gái.

Luận điểm 2: Bức tranh phố huyện về đêm, sự im lặng đến đáng sợ

Ban ngày, mọi vật được soi sáng bằng mặt trời, còn ban đêm, nguyên màn đêm bao phủ phố huyện. Hình ảnh “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa”. Cả phố huyện không có điện, chỉ có những ngọn đèn leo lét. Bóng tối xâm nhập, tất cả mọi việc làm, hoạt động dừng lại.

Những ánh sáng hiếm hoi, quý báu, nổi bật trong đêm tối, nhưng cũng chỉ là khe sáng, hột sáng, quầng sáng. Ánh sáng chỉ thu nhỏ bé tí trong một không gian tối mù mịt. Cuộc sống con người nơi đây cũng vậy, nghèo đói, lam lũ, không một điều gì để tìm kiếm hy vọng. Ánh sáng và bóng tối đối ngược nhau, một bên bao phủ, bên còn lại chỉ là hột sáng, khe, vệt sáng.

*

Hai đứa trẻ luôn mơ ước về tương lai tốt đẹp hơn

Cuộc sống người dân nơi đây như một vòng tuần hoàn, lặp đi lặp lại mỗi ngày vô vị. Sống dưới chế độ phong kiến, số phận của họ thật bi thảm, một cuộc đời lam lũ. Cứ về đêm, họ lại có cảm giác trống vắng, lạc lõng.

Luận điểm 3: Ý nghĩa hình ảnh chuyến tàu đêm xuất hiện mỗi đêm

Chỉ khi Phân tích 2 Đứa Trẻ ta mới hiểu được tại sao Liên và An luôn chờ tàu mỗi đêm. Liên và An cũng như những người khác trong phố huyện đều mong chuyến tàu đến lúc khuya muộn. Sau một ngày dài buồn bã, họ mong một cái gì đó mới mẻ, lạ lẫm đến với mình. Còn riêng với Liên và An, 2 cô bé thức đến đêm vì “Mẹ vẫn dặn phải thức đến khi tàu xuống – Ðường sắt đi ngang qua ngay trước mặt phố – để bán hàng, may ra còn có một vài người mua”. Tuy nhiên, Liên và An chỉ đợi đến khuya để chờ tàu vì nó mang lại nguồn ánh sáng, mà chốn huyện nghèo không hề có. Hình ảnh đoàn tàu làm cho Liên mơ về hà nội xa xăm, sang chảnh, có nhiều ánh đèn.

Chuyến tàu là hoạt động kết thúc một ngày dài, được chờ đợi nhất. Liên và An chỉ là 2 đứa trẻ, ham mới mẻ, thích vui vẻ. Đoàn tàu chở theo đoàn người từ thành phố về, nói cười xôn xao. Hai đứa trẻ thật khó để thức đến tận khuya, nhưng chúng vẫn cố gắng. Cô em luôn nhắc chị thật kỹ “Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé.” Cô bé sợ nếu mình ngủ quên sẽ bỏ lỡ mất chuyến tàu, hy vọng tươi đẹp nhất mỗi ngày.

*

Thạch Lam là nhà văn tài năng được nhiều người biết đến

Dấu hiệu để nhận biết đoàn tàu đến là “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất, như ma trơi”. Báo hiệu để mọi người giữ khoảng cách với đường ray để an toàn. Nhưng trong hai đứa trẻ thì đây là lúc chuẩn bị tinh thần, tập trung nhìn ngắm đoàn tàu. Và rồi, Liên nghe thấy được âm thanh “tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xôi”. Liên ngay lập tức đánh thức em gái dậy, để kịp xem tàu. Theo thói quen, An dậy ngay và nhanh tay dụi mắt để tỉnh hẳn.

Khi đoàn tàu đến, “Hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi. Một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”. Hình ảnh các toa đèn sáng trưng, ánh sáng tỏa khắp, lấn áp bóng đêm nơi phố huyện. Tuy nhiên, đoàn tàu chỉ chạy vụt qua trong chớp mắt, chỉ còn lại những đốm than đỏ bay. Liên cảm giác vô cùng hụt hẫng, lặng người đầy tiếc nuối. Cuối cùng, đoàn tàu cũng khuất xa mãi, đi xa dần, khuất sau rặng tre.

Đoàn tàu mang lại cho phố huyện một không gian khác, âm thanh sôi động. Thế giới mà đoàn tàu có là nơi Liên luôn mơ ước, nơi có nhiều ánh sáng, tiếng người, cuộc sống tốt đẹp hơn. Đoàn tàu mang đến niềm tin mãnh liệt vào tương lai, để họ có động lực sống tốt mỗi ngày.

Phân tích 2 Đứa Trẻ để thấy được bức tranh quê hương nghèo nàn ngày xưa. Về đêm họ phải sống trong bóng tối mù mịt, với một không gian im ắng vô cùng. Chính vì cuộc sống ảm đạm đó mà họ quyết chờ tàu mỗi đêm muộn để đón nhận không khí mới. Con người ai cũng mong muốn có cuộc sống ấm no, đầy đủ, tốt đẹp hơn, kể cả người dân phố huyện.

Phân tích Hai đứa trẻ của Thạch Lam ngắn nhất, đặc sắc nhất – Bài mẫu 2

Nội dung bao trùm của truyện Hai đứa trẻ là tấm lòng “êm mát và sâu kín” của Thạch Lam đối với con người và quê hương, ở đây, nhà văn vừa thể hiện niềm xót thương đối với những kiếp người nghèo khổ sống lam lũ, quẩn quanh trong xã hội cũ vừa bộc lộ thái độ đồng cảnh, trân trọng đối với khát vọng tuy rất mơ hồ của họ. Qua truyện Hai đứa trẻ, người đọc còn cảm nhận được phần nào tình cảm gắn bó với quê hương đất nước của Thạch Lam.

Đọc truyện Hai đứa trẻ, trước hết chúng ta có ấn tượng về cuộc sống lụi tàn, tù túng của những kiếp người sống nghèo đói, quẩn quanh, không ánh sáng, không tương lai trong xã hội cũ.

Câu chuyện mở đầu bằng những câu văn êm dịu, với những âm thanh và hình ảnh báo hiệu một ngày tàn: “Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời.

Xem thêm: Top 27 Món Quà Sinh Nhật Cho Bé Trai 10 Tuổi, Tặng Gì Cho Con 10 Tuổi

Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ra, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ra ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Đây là một trong nhiều bằng chứng ở tác phẩm này cho thấy: “Văn của Thạch Lam thường hiếm khi thừa lời, thừa chữ, không uốn éo làm duyên một cách cầu kì kiểu cách, nhưng vừa giàu hình ảnh và nhạc điệu, lại vừa uyển chuyển, tinh tế (Vũ Ngọc Phan). Nó không những cho người đọc nhìn thấy cảnh vật mà điều quan trọng hơn là khơi gợi ở họ tình cảm, xúc cảm đối với cảnh vật. Hơn nữa, cảnh vật lại phần nhiều đều rất gần gùi, bình dị và mang cốt cách Việt Nam.

Bên cạnh cảnh ngày tàn, chợ tàn là những kiếp người tàn tạ. Chị Tí ban ngày mò cua, bắt tép, tối đến dọn hàng nước chè tươi, thắp một ngọn đèn dầu leo lét. Hàng vắng khách, tuy chiều nào chị cũng dọn từ chập tối cho đến đêm, nhưng “chả kiếm được bao nhiêu”. Bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau để trước mặt, “góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong yên lặng.

Thằng con bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong các bên đường”. Bà cụ Thi hơi điên lại nghiện rượu, có tiếng cười khanh khách, ghê sợ, sau khi uống một hơi cạn cút rượu ti, “cụ đi lần vào bống tối”. Chị em Liên phải thức để trông “một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê ở, vì thầy Liên mất việc”. Hàng “bán chăng ăn thua gi”, Liên thương mấy đứa trẻ nghèo, nhưng “không có tiền để mà cho chúng nó”.

Cảnh Liên xếp hàng vào hòm, cách hai chị em tính tiền, niềm nuối tiếc cái thời còn ở Hà Nội nhiều khi “được đi chơi Bờ Hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”, cái ý nghĩ phở bác Siêu là “một thứ quà xa xỉ” không bao giờ chị em Liên có thể mua được… khiến chúng ta có thể hình dung ra gia cảnh khó khăn và mức sống eo hẹp của gia đình Liên. Thế nhưng, có lẽ dẫu sao, gia đình hai dứa trẻ cũng còn có phần khẩm khá hơn gia đình chị Tí và bác Xẩm, vì còn có “một gian hàng bé thuê lọi của bà lão móm, ngăn ra bằng một tấm phên nứa dán giấy nhật trình”…

Như vậy, từ gia đình chị Tí, gia đình bác Xẩm đến bà cụ Thi và chị em Liên, mỗi người một cảnh, nhưng họ đều có chung sự buồn chán, mỏi mòn… Điều đáng nói hơn là tất cả những nhân vật bé nhỏ này đã hiện ra trong cái nhìn xót thương của Thạch Lam, được thể hiện qua lời văn và những chi tiết dường như rất khách quan.

Khi trời tối hẳn, cả phố huyện dường như chỉ thu vào ngọn đèn của chị Tí. Ngoài ngọn đèn này ra, “thứ bóng tối nhẫn nại uất ức đời thôn quê” (Thế Lữ) làm chủ tất cả. Không phải ngẫu nhiên trong tác phẩm, nhà văn nhắc đi, nhắc lại chi tiết ngọn đèn chị Tí tới 7 lần. Kết thúc truyện, hình ảnh gây ấn tượng, day dứt cuối cùng, đi vào giấc ngủ của Liên cũng vẫn là “chiếc đèn con của chị Tí chiếu sáng một vùng đất nhỏ”.

Phải chăng, hình ảnh này chính là biểu tượng của những kiếp người nghèo khổ, lam lũ sống vật vờ, leo lét trong màn đêm của xã hội thực dân nửa phong kiến? Nhịp sống ở phố huyện này cứ lặp đi, lặp lại một cách đơn điệu, quẩn quanh và tẻ nhạt.

Ngày qua ngày, chiều nào chị Tí cũng dọn hàng “từ chập tối cho đến đêm”, tối nào bác Siêu bán phở cũng nhóm lửa, gia đình bác Xẩm cũng chờ khách, người nhà cụ Thừa, cụ Lục cũng đi gọi người đánh tổ tôm. Chị em Liên tối nào cũng tính tiền hàng, “cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng” và “ngày nào, cứ chập tối, mẹ Liên lại tạt ra thăm hàng một lần” …

Như vậy, “chừng ấy người trong bóng tối” ngày này qua ngày khác sống quẩn quanh, tù túng trong cái “ao đời bằng phẳng” (Xuân Diệu). Hình ảnh những con người này khiến ta nhớ đến một số câu thơ trong bài Quẩn quanh của Huy Cận:

Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu,

Tới hay lui cũng ngần ấy mặt người.

Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười,

Môi nhắc lại cũng ngần ấy chuyện.

Hãy nhớ đến cuộc sống đơn điệu, nhạt nhẽo “cơm mai rồi lại cơm chiều, rút cục mỗi ngày hai bữa cơm” của những nhân vật như Quỳnh và Giao trong thiên truyện ý tưởng Tỏa nhị Kiều của Xuân Diệu. Tuy thế, những người dân phố huyện vẫn hi vọng cho dù hi vọng đó rất mơ hồ: “một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.

Chính sự mong đợi mơ hồ này dường như càng tô đậm thêm tình cảnh tội nghiệp của những nhân vật trong truyện. Họ sống đấy, nhưng đâu biết ngày mai số phận mình sẽ ra sao! Một niềm xót thương da diết của Thạch Lam thể hiện kín đáo ngay trong cách dựng người: dựng cảnh và cái giọng văn đều đều, chậm buồn của ông.

Việc phân tích cảnh ngày tàn, chợ tàn và những kiếp người tàn trên đây giúp ta hiểu vì sao chị em Liên đêm nào cũng cô thức để chờ chuyến tàu đi qua. Phải chăng hai chị em chờ tàu để bán được hàng? Không, “Liên không trông mong còn ai đến mua nữa. Với lại, đêm họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng”.

Hơn nữa, “Liên đã buồn ngủ ríu cả mắt”, nhưng cô vẫn chưa chịu ngủ. Còn “An đã nằm xuống <…> mi mắt đã sắp sửa rơi xuống”, vẫn không quên dặn chị nhớ đánh thức mình dậy khi tàu đi qua. Hại chị em cố thức chì vì “muốn được nhìn chuyến tàu, đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya”; vì với hai đứa trẻ, con tàu đâu chỉ là con tàu. Nó là cả một thế giới khác – “Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái Vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu”.

Có lẽ chính vì vậy mà chuyến tàu được Thạch Lam tập trung bút lực miêu tả một cách tỉ mỉ, kĩ lưỡng theo trình tự thời gian qua tâm trạng chờ mong của hai nhân vật Liên và An. Dấu hiệu đầu tiên của đoàn tàu là sự xuất hiện của người gác ghi. Tiếp theo là Liên trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi”, rồi cô nghe thấy tiếng còi xe lửa “kéo dài ra theo ngọn gió”.

Sau đó, “hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi” kèm theo “một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào”. Thế rồi, “tàu rầm rộ đi tới”, “các toa đèn sáng trưng”, “những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh”. Cuối cùng là cảnh tàu đi vào đêm tối “để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt”, “chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa măi rồi khuất sau rặng tre” …

Đối với chị em Liên và có thể cả không ít người dân phố huyện, chuyến tàu đêm là biểu tượng của sự sống mạnh mẽ, sự giàu sang, rực rỡ ánh sáng. Nó đối lập với cuộc sống mòn mỏi, nghèo nàn, tối tăm và quẩn quanh của người dân phố huyện. Riêng đối với chị em Liên, chuyến tàu đêm còn gợi nhớ về những kỉ niệm của ngày xưa sung sướng, tại đất Hà Nội, khi thầy chưa mất việc.

Phố huyện rầm rộ lên trong chốc lát rồi lại chìm sâu vào bóng đêm yên tĩnh. Và đáng nói hơn: Những người dân phố huyện chỉ chính thức chấm dứt hoạt động khi chuyến tàu đêm đã qua. Phố huyện lại trở về phố huyện. Hình ảnh ngọn đèn leo lét của chị Tí lại hiển hiện trong trạng thái chập chờn của Liên trước khi cô chìm hẳn vào “giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối”.

Qua việc miêu tả tâm trạng của Liên, Thạch Lam thể hiện niềm trân trọng, thương xót, đối với những kiếp người nhỏ bé, sống trong nghèo nàn tăm tối, buồn chán nơi phố huyện (nói rộng ra là sống ở đất nước còn đắm chìm trong đói nghèo, nô lệ đương thời).

Điều này, đương thời Thế Lữ cũng đã nhận xét: “Sự thật tâm hồn Thạch Lam diễn ra trong lời văn chương phức tạp, nhiều hình nhiều vẻ, nhưng bao giờ cũng đằm thắm nhân hậu, cũng nghẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình thương. Nếu Thạch Lam theo một chủ kiến nào trong công việc viết văn của anh, thì chủ ý ấy diễn ra và gợi lên sự xót thương”.

Qua tâm trạng của Liên, phải chăng Thạch Lam dường như còn muốn lay tỉnh những con người đang buồn chán, đang sống quẩn quanh, lam lũ hãy cố vươn tới ánh sáng? Điều này chỉ có được ở những cây bút xuất hiện từ những năm 30 của thế kỉ XX, khi họ ý thức đầy đủ về “cái tôi” cá nhân, cá thể.

Ở đây, dường như Thạch Lam đã bắt gặp Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Tuân… (ở dòng văn học lãng mạn), Nam Cao, Bùi Hiển, Tô Hoài,… (ở dòng văn học hiện thực) trong việc không chấp nhận sống trong cái “ao đời bằng phẳng”, mòn mỏi và tù túng, khao khát hướng tới một cuộc sống có ý nghĩa, xứng đáng là cuộc sống của con người.

Như vậy, thể hiện một cách nhẹ nhàng khát vọng hướng tới cuộc sống sáng tươi của những con người bé nhỏ, bình thường, Hai đứa có một giá trị nhân bản đáng quý. Ngoài ra, Hai đứa trẻ phần nào còn là một bài ca về thiên nhiên, đất nước. Bằng sự gắn bó với đất nước và dân tộc, bằng tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, Thạch Lam đã đưa đến cho người đọc những bức tranh quê hương gần gũi mà không kém phần thơ mộng, đầy gợi cảm: “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, vàng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào.. “, “Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”.

Các nhân vật trong truyện luôn gắn bó với thôn dã. Bởi thế, chỉ mới gặp “mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc”, chị em Liên đã “tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Vốn sống hòa hợp gần gũi với thiên nhiên, hai đứa trẻ luôn chú ý phát hiện tinh tế những biến thái của nó: “An và Liên lặng ngước mắt lên nhìn các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông”.

Tâm hồn chúng dường như có sự giao cảm, giao hòa với cây cỏ quê hương: qua kẽ lá của cành bàng, ngàn sao vẫn lấp lánh; một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”. Những cảnh vật, những chi tiết trên đây hết sức quen thuộc, thường có ở quanh ta.

Vậy mà bằng một giọng văn dịu dàng, trầm tĩnh, dưới ngòi bút Thạch Lam, chúng trở nên gợi cảm biết bao! Ta hiểu rằng, lòng yêu quê hương đất nước của mỗi con người Việt Nam chính có phần được bồi đắp bởi những chi tiết hết sức bình dị này.

Điều đáng lưu ý là nhìn chung trong những tác phẩm của các cây bút hiện thực như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nam Cao… dường như ít thấy cảm hứng về thiên nhiên. Như vậy, đây phải chăng cũng có thể coi như một đóng góp của Thạch Lam cho văn học giai đoạn từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945?

Hơn nữa, trong khi nhiều truyện ngắn những năm 30 – 40 của thế kỉ XX thường lôi cuốn người đọc bằng cốt truyện hấp dẫn, tình tiết mới lạ, cách dẫn chuyện khéo léo có duyên, hay bút pháp phóng đại… (chẳng hạn phần nhiều những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan), thì truyện của Thạch Lam lại làm cho người đọc yêu mến bằng chất thơ trong cuộc sống thường nhật. Mỗi truyện thường cấu tứ xung quanh một tâm trạng, một suy tưởng âm thầm của nhân vật.

Vì là truyện trữ tình, nên đằng sau các chi tiết, các nhân vật luôn ẩn hiện hình ảnh của chính tác giả – một con người tinh tế, dịu dàng, nhạy cảm trước mọi biến thái của đất trời và của lòng người, đặc biệt luôn xót thương những kiếp người sống quẩn quanh, đói nghèo và tăm tối.

Phân tích Hai đứa trẻ của Thạch Lam ngắn nhất, đặc sắc nhất – Bài mẫu 3

Hai đứa trẻ là truyện ngắn được nhà văn Thạch Lam viết vào những năm 1937 – 1938 khi mà xã hội Việt Nam ở vào một trong những thời kì đen tối nhất. Đây là truyện mang đậm phong cách của Thạch Lam, cốt truyện không có những nút thắt nổi bật độc đáo nhưng khi đọc xong luôn ám ảnh lòng người. Một trong những thành công của truyện là tác giả đã tái hiện lại bức tranh sinh động về đời sống ở một ga xép khi màn đêm buông xuống mà qua đó nhà văn đã gửi gắm tình cảm của mình với những cảnh đời khác nhau.

Tác phẩm Hai đứa trẻ được bắt đầu bằng cảnh chiều tà trên phố huyện. Văn học xưa nay khi tả cảnh chiều thường có những hình ảnh chim về tổ, người đi xa nhớ nhà, nỗi buồn hoàng hôn… Ở Hai đứa trẻ ta không bắt gặp hình ảnh đó nhưng cảnh chiều vẫn thấm thía một nỗi buồn và trong cái buồn nhà văn vẫn phát hiện nét đẹp thi vị mang chút hoang sơ của làng quê “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn… Chiều, chiều rồi, một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”.

Cùng với cảnh chiều tà là chợ tàn với hàng loạt những hình ảnh phơi bày vẻ nghèo xơ xác ở chốn này: “Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đấy chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Ngay sau cảnh chợ tàn là cảnh bóng tối bao phủ.

Dưới con mắt của Liên thì giờ đây tất cả đã ngập đầy bóng tối. Thạch Lam miêu tả bóng tối thật kì diệu. Có đến 30 lần tác giả nhắc đến bóng tối. Bóng tối đến từ nhiều phía: từ đám mây sắp tàn, từ rặng tre đã đen kịt, từ tiếng muỗi vo ve trong góc nhà, tiếng ếch kêu ngoài đồng để rồi nó bao trùm lên đường phố và các ngõ hẻm: “Tối hết cả từ con đường khấp khểnh ra sông…, các ngõ hẻm vào làng thì càng tối đen hơn nữa”

Với cách miêu tả này người đọc sẽ cảm nhận bóng tối như một cái gì đó rất hãi hùng, như một sự hăm dọa. Nó luồn lách mọi nơi, nó thâm nhập vào cảnh vật. Nó trùm lên và đè nặng lên cuộc sống ngột ngạt ở phố huyện nghèo nàn này. Trong chuyện cũng có những chi tiết nói về ánh sáng ấy vừa leo lét tù mù, yếu ớt không đủ sức xua đi bóng tối mà trái lại lại còn gây cảm giác bóng tối càng đậm đặc hơn. Cứ tối đến thì bóng những con người bắt đầu xuất hiện khiến người đọc liên tưởng đến những loài chim ăn đêm lặn lội. Mặt khác ta cũng nghĩ ngay đến cảnh đời tăm tối trong đêm đen của chủ nghĩa thực dân phong kiến.

Cách miêu tả với từng gương mặt cụ thể, mỗi người có một đời sống riêng: chị Tí cứ nhá nhem tối là xuất hiện. Sau một ngày mò cua bắt tép vất vả, mặc dù biết là chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng tối nào chị cũng dọn hàng. Hình ảnh ngọn đèn leo lét chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ ở quán nước của chị lại khiến ta liên tưởng tới cuộc sống tù mù, leo lét.

Khi bác phở Siêu xuất hiện với một chấm lửa nhỏ và lơ lửng trong đêm tối, chập chờn như ma trơi. Từ khi dọn hàng cho tới lúc về bác không bán được đồng nào. Bà cụ Thi điên từ trong bóng tối đi ra với tiếng cười khanh khách. Sau khi uống cạn cút rượu, tiếng cười của cụ lại chìm vào bóng tối. Ở nhân vật này ẩn chứa một sự tội nghiệp u uất đầy bí ẩn.

Nhưng cảnh ám ảnh nhất là hình ảnh vợ chồng bác Xẩm mà nhà văn đã ba lần nhắc đến họ. Họ xuất hiện với tiếng đàn bầu run bần bật trong đêm tối rồi với đứa con bò lê trên đất cát trong bóng tối và khi về đêm về khuya thì họ ngủ gục trên manh chiếu tự bao giờ.

Sau khi miêu tả từng gương mặt tác giả khái quát lại “Chừng ấy con người trong bóng tối như mong đợi một cái gì tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Rõ ràng nhà văn đã thấu hiểu đồng cảm sâu sắc với những cảnh đời trong bóng tối và chính Thạch Lam cũng mong đợi được đổi đời.

Tuy chuyện không nêu nên những vấn đề gay gắt mà tác giả chỉ lặng lẽ vẽ ra bức tranh phố huyện nghèo nhưng người đọc lại cứ bị ám ảnh mãi bởi những hình ảnh con người tác tác giả chọn lựa đưa vào câu chuyện. Tác phẩm đã thể hiện lòng cảm thông của Thạch Lam với những người nghèo, nhà văn trăn trở những khao khát rất bình dị của họ.

Qua tác phẩm, Thạch Lam cũng thể hiện niềm tin và sự ca ngợi phẩm chất của người lao động. Dù trong hoàn cảnh nào họ vẫn cứ cần cù, cứ lầm lũi sống, cứ âm thầm khao khát cuộc sống tươi sáng cho mình. Tuy tác phẩm nói nhiều về bóng tối nhưng người đọc vẫn thấy ánh lên một niềm tin: những con người ở đây sẽ không cam chịu sự quẩn quanh, tù túng và họ luôn cố gắng hướng tới cái gì đó tươi sáng hơn.

Quả thật văn của Thạch Lam mang một phong cách rất độc đáo riêng biệt dù không cao trào, không mâu thuẫn thế nhưng lại để lại những ấn tượng sâu lặng trong lòng người đọc và làm nên một một bản sắc văn học rất riêng có tên gọi Thạch Lam.

Phân tích Hai đứa trẻ của Thạch Lam ngắn nhất, đặc sắc nhất – Bài mẫu 4

Nhắc đến Thạch Lam là nhắc đến một nhà văn lớn của khuynh hướng văn học lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Tác phẩm của ông chủ yếu khai thác thế giới nội tâm của nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ. Nhà văn Nguyễn Tuân khi nhận xét về Thạch Lam từng viết: “Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn từ những chân cảm đối với con người ở tầng lớp dân nghèo. Thạch Lam là nhà văn luôn quý mến cuộc sống, trân trọng sự sống của mọi người xung quanh”. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” chính là minh chứng tiêu biểu nhất cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam.

“Hai đứa trẻ” được rút trong tập truyện ngắn “Nắng trong vườn” (1938). Nhân vật chính của tác phẩm là hai chị em Liên và An. Do gia đình xảy ra biến cố, hai đứa trẻ theo mẹ về quê ngoại ở một phố huyện nghèo. Ngày ngày hai chị em Liên và An trông coi căn hàng xén nho nhỏ với vài ba bao thuốc, dăm bánh xà phòng… và chờ đợi đoàn tàu đi ngang phố huyện. Qua con mắt ngây thơ của Liên, cuộc sống nơi phố huyện hiện lên chân thực, sống động. Đó là mảng màu u tối trong không gian chật hẹp, tù túng với những con người chậm chạp, vô hồn và nghèo đói. Truyện ngắn thể hiện niềm cảm thương chân thành của Thạch Lam đối với những kiếp sống nghèo khổ, chìm khuất trong mòn mỏi, tăm tối, quẩn quanh nơi phố huyện trước cách mạng và sự trân trọng với những mong ước nhỏ bé, bình dị mà tha thiết của họ.

Như đã nói, làm nên truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là cảnh ngày tàn và những kiếp người tàn. Mở đầu câu chuyện, đập vào giác quan người đọc là khung cảnh chiều tàn, ảm đạm và u tối. Thời gian được khắc họa trong tác phẩm ngắn ngủi, mọi sự việc diễn ra được kể từ lúc chiều tối cho đến đêm. Cảnh chiều tàn, trước hết qua con mắt của người nghệ sĩ, vẫn mang vẻ đẹp vô cùng yên ả, bình dị và thơ mộng. “Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Thế nhưng, bức tranh ấy tuy đẹp nhưng ẩn chứa sau nó là cả một nỗi buồn mà người vẽ đã cố ý che đi bằng những mảng màu rực rỡ. Có người đã nhận xét, văn Thạch Lam vừa chất chứa hiện thực vừa giàu tính lãng mạn. Điều đó hoàn toàn đứng khi đặt vào truyện ngắn “Hai đứa trẻ”. Bởi khuất lấp sau nhiều tầng lớp ngôn từ, điều Thạch Lam gửi gắm đó là cuộc sống mòn mỏi, tăm tối vây hãm con người.

Nơi chị em Liên ở là một phố huyện nghèo và thực chất nó là cái chợ xép nhỏ. “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này.” Chỉ cần nhìn vào những gì còn sót lại sau phiên chợ cũng đủ để thấy cuộc sống cư dân ở đây khổ cực như thế nào. Những người bán hàng về muộn đứng nói chuyện với nhau ít câu như để trao lại cho nhau những nỗi tẻ nhạt cuộc sống mưu sinh. Những đứa trẻ nhà nghèo đang lúi húi sinh nhai trên đống phế phẩm của phiên chợ quê nghèo. Chúng “cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa thanh tre hay bất cứ thứ gì có thể dùng được của những người bán hàng để lại”. Đây là hiện thân đầy đủ nhất của sự khốn cùng. Tất cả như đang cố sức để sống và hy vọng nhưng sự cố gắng thì đã quá sức còn hi vọng vốn quá mong manh.

Nổi bật trên nền cảnh tàn tạ, hắt hiu của phố huyện là hình ảnh những kiếp người tàn, quẩn quanh, tù túng không lối thoát. Đó là vợ chồng bác xẩm với tiếng đàn bầu thê lương, trên manh chiếu rách, thằng con bò ra đất ngoài manh chiếu, nghịch nhặt rác bẩn. Đó là mẹ con chị Tí, ngày mò cua bắt ốc, tối đến lại dọn hàng nước ven đường “chả kiếm được bao nhiêu, nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng, từ chập tối cho đến đêm”. Đó là bác phở Siêu với gánh hàng vốn là thứ quà xa xỉ đối với người dân phố huyện, là bà cụ Thi điên nghiện rượu, là những đứa trẻ con nhà nghèo và chính cả hai chị em Liên… Thân phận tàn tạ đang héo mòn, con người hoà lẫn cùng bóng tối như những cái bóng vật vờ lay lắt, mong manh đang trôi theo thời gian. Cuộc sống ấy cứ đều đều, đơn điệu, lặp đi lặp lại buồn tẻ, nhàm chán đối với người dân phố huyện. Tất cả họ đang mong đợi một cái gì đó tươi mát thổi vào cuộc đời họ.

Nét vẽ âm thanh, ánh sáng, con người của bức tranh phố huyện tưởng chừng rời rạc, nhưng nó hoà quyện cộng hưởng trong hệ thống u buồn, trầm mặc, xót xa. Điểm thêm vào cuộc sống ấy là ngọn đèn dầu cùng bóng tối bao phủ, càng ngợi sự nghèo khổ lay lắt đến tội nghiệp.

Cảnh ngày tàn được miêu tả ảm đạm, tù túng với những kiếp người tàn. Và, sự tẻ nhạt, tăm tối như được nâng lên gấp nhiều lần khi Thạch Lam miêu tả cảnh phố huyện lúc đêm khuya. Trong tác phẩm có đến hơn hai mươi lần từ “tối” được lặp lại. “Đường phố và các con ngõ dần dần chứa đầy bóng tối”, “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa”, “đêm ở trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối”. Bóng tối bao trùm tất cả, tràn ngập trong tác phẩm, tạo nên một bức tranh u tối, một không gian tù đọng, gợi cảm giác ngột ngạt. Bóng tối được miêu tả nhiều trạng thái khác nhau, có mặt suốt từ đầu đến cuối tác phẩm. Gợi cho người đọc thấy một kiếp sống bế tắc, quẩn quanh của người dân phố huyện nói riêng và nhân dân trước cách mạng tháng Tám nói chung. Đó cũng là biểu tượng của những tâm trạng vô vọng, nỗi u hoài trong tâm thức của một kiếp người.

Không chỉ là không gian, cảnh vật, cuộc sống của những cư dân nơi phố huyện cũng phủ đầy đêm tối. Họ hoạt động, mưu sinh trong bóng tối mịt mù. Tối đến, mẹ con chị Tí dọn hàng nước. Đêm về, bác phở Siêu xuất hiện. Trong bóng tối, gia đình bác hát Xẩm kiếm ăn. Khi bóng tối tràn ngập là lúc bà cụ Thi điên đến mua rượu uống rồi sau đó “đi lần vào đêm tối”. Còn Liên và An đêm nào cũng ngồi lặng ngắm phố huyện và chờ đoàn tàu. Cuộc sống lặp đi lặp lại đơn điệu, buồn tẻ với những động tác quen thuộc, những suy nghĩ mong đợi như mọi ngày. Họ cùng mong đợi “một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày”.

Trong bóng tối đen đặc ấy, hình ảnh ngọn đèn dầu được nhắc hơn mười lần như một chút hi vọng mong manh Thạch Lam muốn gieo vào lòng con người. Đó là “ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí”, “ngọn đèn của Liên, ngọn đèn vặn nhỏ, thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa”. Tất cả không đủ chiếu sáng, không đủ sức phá tan màn đêm, mà ngược lại nó càng làm cho đêm tối trở nên mênh mông hơn, càng ngợi sự tàn tạ, hắt hiu, buồn đến nao lòng. Ngọn đèn dầu, mặt khác cũng là biểu tượng về kiếp sống nhỏ nhoi, vô danh vô nghĩa, lay lắt. Một kiếp sống leo lét mỏi mòn trong đêm tối mênh mông của xã hội cũ, không hạnh phúc, không tương lai, cuộc sống như cát bụi. Cuộc sống ấy cứ ngày càng một đè nặng lên đôi vai mỗi con người nơi phố huyện. Cả một bức tranh đen tối. Những hạt sáng của ngọn đèn dầu hắt ra chỉ như những lỗ thủng trên một bức tranh toàn màu đen càng bi đát, tối tăm.

Trong toàn bộ tác phẩm, nhân vật mà Thạch Lam chú ý nhiều nhất là nhân vật Liên. Mặc dù Liên chỉ là một cô bé mới lớn nhưng ở em có những suy nghĩ, cảm xúc chân thực, đẹp đẽ đáng trân trọng. Ở đây, trước cảnh tăm tối, tù túng nơi phố huyện, tâm trạng của Liên cũng trở nên buồn bã, tư lự. Liên nhớ lại những tháng ngày tươi đẹp ở Hà Nội, “một vùng sáng rực và lấp lánh”. Khi ấy “mẹ Liên nhiều tiền – được đi chơi bờ hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”. Đó là cuộc sống khác hẳn với cảnh sống tăm tối, tù túng nơi phố huyện. Tuy nhiên, với cuộc sống hiện tại, cảm nhận của Liên tuy buồn nhưng thân thuộc, gần gũi. Liên không ghét bỏ hay từ chối cuộc sống hiện tại. Liên và An lặng lẽ ngắm các vì sao, lặng lẽ quan sát những gì diễn ra ở phố huyện và xót xa cảm thông, chia sẻ với những kiếp người nhỏ nhoi sống lay lắt trong bóng tối của cơ cực đói nghèo, tù đọng trong bóng tối của họ.

Một chút ánh sáng của những ngọn đèn có thể không đủ để xua đi cái tăm tối, ảm đạm, quẩn quanh của cuộc sống. Tuy nhiên, Thạch Lam không dập tắt hy vọng của những con người khốn khổ ấy. Ông mang đến cho họ niềm vui, hy vọng lớn lao hơn dù nó chỉ diễn ra trong chốc lát, đó là chuyến tàu đêm rực rỡ ánh đèn. Chuyến tàu đêm qua phố huyện là niềm vui duy nhất trong ngày của chị em Liên và những cư dân phố huyện. Nó mang đến một thế giới khác: ánh sáng xa lạ, âm thanh nao nức, tiếng ồn ào của khách… và đối lập với nhịp điệu buồn tẻ nơi phố huyện. Chuyến tàu ở Hà Nội về chở đầy ký ức tuổi thơ của hai chị em Liên, mang theo một thứ ánh sáng duy nhất, như con thoi xuyên thủng màn đêm, dù chỉ trong chốc lát cũng đủ xua tan cái ánh sáng mờ ảo nơi phố huyện. Việc chờ tàu trở thành một nhu cầu như cơm ăn nước uống hàng ngày của chị em Liên. Liên chờ tàu không phải vì mục đích tầm thường là đợi khách mua hàng mà vì nhiều mục đích khác. Liên hi vọng được nhìn thấy những gì khác với cuộc đời mà hai chị em Liên đang sống. Con tàu mang đến một kỷ niệm, đánh thức hồi ức vui vẻ, đủ đầy mà chị em cô đã từng được sống. Chuyến tàu cũng giúp Liên nhìn thấy rõ hơn sự ngưng đọng tù túng của cuộc sống phủ đầy bóng tối hèn mọn, nghèo nàn của cuộc đời mình. Có thể nói, Liên là người giàu lòng thương yêu, hiếu thảo và đảm đang. Nỗi buồn cùng bóng tối đã tràn ngập trong đôi mắt Liên, nhưng trong tâm hồn cô bé vẫn dành chỗ cho một mong ước, một sự đợi chờ trong đêm. Cô là người duy nhất trong phố huyện biết ước mơ có ý thức về cuộc sống. Cô mỏi mòn trong chờ đợi.

Trong tác phẩm, hình ảnh chuyến tàu đêm là một biểu tượng có ý nghĩa sâu sắc. Nó là đại diện của một thế giới thật đáng sống với sự giàu sang và sự rực rỡ ánh sáng. Nó đối lập với cuộc sống mòn mỏi, nghèo nàn, tối tăm và quẩn quanh với người dân phố huyện. Qua tâm trạng của Liên tác giả muốn lay tỉnh những người đang buồn chán, sống quẩn quanh, lam lũ và hướng họ đến một tương lai tốt đẹp hơn. Đó là giá trị nhân bản của truyện ngắn này. Bên cạnh đó, chuyến tàu cũng là biểu tượng cho một cuộc sống sôi động, nhộn nhịp, vui vẻ, hiện đại. Dù chỉ trong giây lát nó cũng đưa cả phố huyện thoát ra khỏi cuộc sống tù đọng, u ẩn, bế tắc.

Để làm nên thành công của tác phẩm, bên cạnh giá trị nội dung sâu sắc, không thể không kể đến tài hoa nghệ thuật của Thạch Lam. Cốt truyện đơn giản, nổi bật là những dòng tâm trạng chảy trôi, những cảm xúc, cảm giác mong manh, mơ hồ trong tâm hồn nhân vật. Đọc “Hai đứa trẻ”, người đọc hoàn toàn có thể nhận ra câu chuyện gần như không có cốt truyện, tất cả chỉ đơn giản là những mảnh cảm xúc, những chi tiết, sự việc nhỏ nhặt chắp nối với nhau qua suy nghĩ, cảm nhận của nhân vật Liên. Bút pháp tương phản đối lập cũng được xem là một thành công của Thạch Lam trong quá trình kể chuyện. Đó là sự đối lập giữa bóng tối đậm đặc với ánh đèn dầu leo lét, là sự đối lập giữa cuộc sống quẩn quanh, ảm đạm của người dân phố huyện với cuộc sống ồn ã, sôi động trên chuyến tàu đêm. Với sự đối lập này, Thạch Lam hướng đến nhấn mạnh, tô đậm cuộc sống tăm tối, tù túng, vô vọng của những cư dân nơi phố huyện. Bên cạnh đó, chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận ra khả năng miêu tả sinh động những biến đổi tinh tế của cảnh vật từ bóng tối đến ánh sáng và tâm trạng của con người mà đặc biệt là nhân vật Liên. Đó có thể là buồn bã, cảm thông hay nuối tiếc… tất cả đều tinh tế và phù hợp với diễn biến câu chuyện. Ngoài ra, cũng có thể kể đến hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, tượng trưng và giọng điệu thủ thỉ, thấm đượm chất thỏ chất trữ tình sâu sắc. Tất cả đã góp phần làm nên chất văn của Thạch Lam, đặc sắc và đầy thu hút.