hocketoanthue.edu.vn - Sau khi phân tích những lỗi thiếu chính xác trong hướng dẫn cách viết thành ngữ, tục ngữ, hoặc do không nắm được yếu tố cấu tạo từ trong cuốn “Từ điển chính tả tiếng Việt” của GS.TS Nguyễn Văn Khang, ông Hoàng Tuấn Công tiếp tục chỉ ra lỗi sai chính tả do phát âm sai và không hiểu nghĩa của từ ngữ, yếu tố Hán Việt của cuốn sách này.

 Lỗi sai của ""Từ điển chính tả tiếng Việt"" (2018) được bê nguyên xi từ cuốn ""Từ điển chính tả tiếng Việt phổ thông"" (2003)
Những sai sót trong cuốn Từ điển chính tả tiếng Việt của GS.TS Nguyễn Văn Khang, bao gồm rất nhiều mặt, như: Sai chính tả do lẫn lộn CH với TR, S với X; D với R; GI với D; L với N; IU với ƯU; dấu hỏi (?) với dấu ngã (~); sai về thành ngữ tục ngữ, từ ngữ Hán Việt... Nhiều mục chỉ dẫn chính tả hoàn toàn ngược lại với chuẩn chính tả hiện hành; chỉ dẫn giữa các mục từ tiền hậu bất nhất; hướng dẫn viết nhiều dạng chính tả không chuẩn, và rất nhiều lỗi văn bản khác. 
Để chỉ ra sai sót trong từ điển của GS.TS Nguyễn Văn Khang, chúng tôi sẽ căn cứ vào chính Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học - Hoàng Phê chủ biên, gọi tắt là Hoàng Phê), và Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, có sửa chữa bổ sung sau khi GS Hoàng Phê thành lập Trung tâm Từ điển học Vietlex, gọi tắt là Hoàng Phê (Vietlex) để làm chuẩn. Ngoài ra, chúng tôi còn căn cứ vào nhiều cứ liệu trong hàng chục cuốn từ điển khác. Những mục không có bất cứ cuốn từ điển uy tín nào chúng tôi có trong tay viết theo dạng chính tả mà GS.TS Nguyễn Văn Khang hướng dẫn, sẽ được đánh dấu , sau mỗi phần trao đổi.
Không ít người lầm tưởng chỉ có “chiêu mộ”, không có “triêu mộ”. Ví dụ “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” (GS. Nguyễn Lân) giảng: “chiêu mộ dt. Sáng và chiều”; “chiêu mộ đgt. Tuyển người làm một việc gì”. Sự thực, ngoài “chiêu mộ” 招募 (tuyển mộ), còn có “triêu mộ” 朝暮 (sớm chiều), như “tiếng chuông triêu mộ”..
Như vậy, ở mục từ này, đáng ra Từ điển phải có phụ chú và chỉ dẫn cụ thể, ví dụ: “chiêu mộ” (tuyển mộ), không lầm với “triêu mộ” (sớm chiều)”, thì GS. TS. Nguyễn Văn Khang lại chỉ dẫn “không viết: triêu”. Nếu ai đó băn khoăn không biết nên viết “ba hồi chiêu mộ” hay “ba hồi triêu mộ”, khi giở sách và dùng theo chỉ dẫn của từ điển này sẽ bị sai..
-Hán ngữ đại từ điển: “soán: 1. dùng sức mạnh để mà cướp lấy; 2. chỉ bề tôi cướp ngôi vua.”<: 1. 用強力奪取; 2. 特指臣子奪取君位>.
-Hoàng Phê (Vielex): “soán đoạt • 篡奪 đg. xem thoán đoạt”. thoán đoạt • 篡奪 đg. cướp ngôi vua. Đn: soán đoạt, thoán nghịch”.
-Hán ngữ đại từ điển: “đắc chí: 1. nói thực hiện được chí hướng và nguyện vọng; 2. chỉ dang lợi, khát vọng được thoả mãn”.<得志: 1. 謂實現其志願; 2. 指名利欲望得到滿足>.
-Hoàng Phê (Vietlex): “đắc chí • 得志 t. 1 tỏ ra thích thú vì đã đạt được điều mong muốn. “Nói xong, ông lý vỗ vào đùi bôm bốp, đắc chí lắm, sung sướng lắm.” (Vũ Trọng Phụng; 15). Đn: đắc ý, khoái chí. 2 được thoả mãn như hằng mong muốn. “(…) ánh trăng vằng vặc, sáng tỏ như ban ngày, chiếu thêm nét mặt những anh hùng đắc chí.” (Nguyễn Huy Tưởng)..
Viết “xán” trong “xán lạn” 燦爛 mới đúng (ghép đẳng lập): “xán” 燦 có nghĩa là rực rỡ, chói lọi; mà “lạn” 爛 cũng có nghĩa là tươi sáng, rực rỡ. Còn “sán” với tự hình 疝 lại chỉ nhóm giun kí sinh thân dẹt ở người, động vật, hoặc chỉ bệnh sa đì, bệnh thoát vị bẹn, bệnh sưng hòn dái. “Hán ngữ đại từ điển” giảng: “xán lạn: 1. vẻ rực rỡ, tươi đẹp; 4. hình dung sự việc hoặc sự nghiệp huy hoàng, tốt đẹp.” <燦爛: 1. 明亮貌; 鮮明貌; 4. 形容事情或事業輝煌; 美好>. .
Điều kì lạ là ở mục “sán”, GS. TS. Nguyễn Văn Khang hướng dẫn viết “sán lạn”, đến mục này lại hướng dẫn viết “sáng lạn”, đồng thời khuyên “không viết: sán” (rất nhiều mục từ chỉ dẫn kiểu tiền hậu bất nhất này). Điều đáng nói, là cả hai cách viết này đều sai. Hoàng Phê (Vietlex) giảng: “xán lạn 燦爛 t. rực rỡ, chói lọi. tiền đồ xán lạn”.
Dù không phải từ điển chính tả, nhưng Hoàng Phê đã có thêm chỉ dẫn như sau: “nên nói và viết là xán lạn, không nên dùng sáng lạn (sai khá phổ biến)”. Có lẽ GS. Hoàng Phê cũng không thể ngờ rằng, người từng là cộng sự của ông - GS. TS. Nguyễn Văn Khang - khi biên soạn từ điển chính tả, ngoài viết sai “sáng lạn”, còn thêm một kiểu sai nữa là “sán lạn”, đặt cạnh mục “sán lợn”..
Viết “xao” mới đúng. “Thôi xao” 推敲, nghĩa là đẽo gọt, lựa chọn chữ nghĩa. Nguyên Giả Ðảo đời Đường có câu thơ: Điểu túc trì trung thụ, Tăng xao nguyệt hạ môn 鳥宿池中樹, 僧敲月下門. Vốn Giả Ðảo định dùng chữ thôi 推 = đẩy (cửa), rồi lại định dùng chữ xao 敲 = gõ (cửa), băn khoăn mãi mà không biết nên chọn chữ nào. Khi hỏi Hàn Dũ, ông bảo nên dùng chữ xao 敲. Sau này “thôi xao” 推敲 được dùng với nghĩa cân nhắc, lựa chọn chữ nghĩa..
Viết “xiêu” mới đúng. Vì “xiêu” có nghĩa là trôi nổi, lưu lạc (như “hồn xiêu phách lạc, xiêu lạc, xiêu dạt, xiêu lưu…). Hoàng Phê (Vietlex): “xiêu tán 飄散 đg. như phiêu tán. dân phải xiêu tán vì giặc giã”..
Viết chuẩn là “lãi suất” (do “lợi suất” 利率 trong tiếng Hán). Theo đây, “suất” 率 là yếu tố gốc Hán, có nghĩa tỉ lệ, mức. Hoàng Phê: “lãi suất d. Tỉ lệ phần trăm giữa lãi so với vốn”..
Viết “xử” mới đúng (xử 處 là yếu tố gốc Hán có nghĩa là phân xử). Việt Nam từ điển (Lê Văn Đức): “xử kiện • đt. Phân-xử một vụ kiện, định phần lỗi phải về ai và định tội-trạng: Quan ngồi xử kiện”.
Viết ‘xử” mới đúng, vì “xử nữ” 女 mới có nghĩa là “Người con gái còn ở nhà với bố mẹ, chưa đi lấy chồng.” (Việt Nam tự điển-Hội Khai trí Tiến đức).
Viết “xử” mới đúng. Vì “xử tử” 處死 nghĩa là xử tội chết, thi hành án tử hình. Hán ngữ đại từ điển: “xử tử: 2. xử tử hình; chấp hành án tử hình; 3. giết chết (phiếm chỉ)”. <處死 2. 判處死刑; 執行死刑 3. 泛指殺死>. Nếu “sử tử” 使死 được Từ điển dùng với nghĩa “khiến cho phải chết”, thì trong tiếng Việt cũng như tiếng Hán đều không có từ này..
*

Liên hệ RSS
*
*
*
Lên đầu trang
*

*